Phòng, chống AIDS là một ‘sự nghiệp còn dang dở’

15/06/2017 18:09

Phòng, chống AIDS đang là một ‘sự nghiệp còn dang dở’ ở Việt Nam cũng như ở nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, Việt Nam có tiềm năng và cơ hội rất lớn để đẩy nhanh tiến độ phòng, chống AIDS và khống chế được dịch HIV trong vòng 5 năm tới.

Phóng viên Trang tin Tiếng Chuông-Trang tin của Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm có buổi trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong công tác phòng, chống HIV/AIDS với bà Marie-Odile Emond, tân Giám đốc Quốc gia của Chương trình phối hợp phòng, chống HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc (UNAIDS) tại Việt Nam.

Bà Marie-Odile Emond, tân Giám đốc Quốc gia của Chương trình phối hợp phòng, chống HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc (UNAIDS) tại Việt Nam. Ảnh: Thùy Chi

Là người có nhiều năm gắn bó với công tác phòng, chống HIV/AIDS, xin bà cho biết đánh giá về tình hình dịch HIV ở Việt Nam hiện nay?

Bà Marie-Odile Emond: Dịch HIV ở Việt Nam đang ổn định, số hiện nhiễm HIV trên toàn quốc ở mức dưới 0,3%, số ca nhiễm mới và số tử vong do AIDS hằng năm đã giảm xuống thấp hơn mức đỉnh điểm dịch vào đầu thập kỷ 2000. Tuy nhiên, dịch vẫn chưa kết thúc và HIV vẫn đang là một mối nguy cho sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam.

Ước tính hàng năm vẫn phát hiện 10.000 ca nhiễm HIV mới và khoảng 8.000 người tử vong do AIDS. Hiện có khoảng 240.000 người nhiễm HIV còn sống ở Việt Nam, trong đó số người nhiễm HIV là phụ nữ ngày càng tăng. Hình thái lây truyền HIV đã có những diến biến mới và phức tạp, đòi hỏi phải có những cách tiếp cận mới trong can thiệp.

Dịch HIV trong những người nam quan hệ tình dục đồng giới sống tại khu vực đô thị đang tăng mạnh. Số nhiễm HIV mới đang tăng cao trong những phụ nữ là vợ và bạn tình của nam giới nhiễm HIV và nam giới có hành vi nguy cơ cao. Trong khi đó tiêm chích ma túy vẫn là đường lây truyền chính của HIV. Kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV, dù nhìn chung đã được cải thiện, vẫn tiếp tục là rào cản lớn ngăn việc tiếp cận tới và sử dụng các dịch vụ phòng chống HIV/AIDS cũng như việc kết nối đến điều trị. Phòng chống AIDS là một ‘sự nghiệp còn dang dở’ ở Việt Nam cũng như ở nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, tôi rất lạc quan rằng Việt Nam có tiềm năng và cơ hội rất lớn để đẩy nhanh tiến độ phòng chống AIDS và khống chế được dịch HIV trong vòng 5 năm tới.

Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ đến năm 2020 thực hiện mục tiêu 90-90-90. Tuy nhiên, hiện Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong công tác phòng, chống HIV/AIDS do nguồn lực bị hạn chế, vậy bà có khuyến nghị gì để Việt Nam có thể thực hiện được mục tiêu này?

Bà Marie-Odile Emond: Việt Nam đã có những bước tiến và thành tựu rất ấn tượng trong việc tiến tới thực hiện các mục tiêu 90-90-90 và thực sự có cam kết rất mạnh mẽ đối với các mục tiêu này. Một phân tích tác động được thực hiện mới gần đây do tổ chức Liên Hơp Quốc hỗ trợ ước tính rằng trong thời gian từ 2001 đến 2016 chương trình phòng chống AIDS, đặc biệt là việc nhanh chóng mở rộng chương trình trong những năm giữa thập kỷ 2000, đã giúp gần nửa triệu người Việt Nam tránh khỏi bị nhiễm HIV. Nhưng chúng ta vẫn còn nhiều thách thức phải vượt qua.

Chúng ta phải hiểu rõ hơn những hình thái biến chuyển mới và phức tạp của dịch HIV để có thể tối ưu hóa tác động của chương trình phòng chống AIDS. Ví dụ, số liệu về kích cỡ quần thể các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao còn chưa đầy đủ, gánh nặng HIV và đáp ứng với HIV cũng có những khác biệt rất lớn giữa các tỉnh. Trong bối cảnh đó, Việt Nam lại đang phải nỗ lực để thu hẹp các khoảng trống trong cung cấp dịch vụ.

Chương trình phòng chống HIV/AIDS cũng đang trong quá trình chuyển đổi từ chủ yếu dựa vào nguồn hỗ trợ quốc tế sang nguồn tài chính trong nước, khi đó trách nhiệm chia sẻ kinh phí phòng chống AIDS của cả trung ương và địa phương đều sẽ cần tăng lên đáng kể. Việc đưa các dịch vụ phòng chống HIV hòa nhập vào hệ thống y tế chung thông qua sử dụng nguồn quỹ bảo hiểm y tế cũng đòi hỏi nhiều sự quan tâm và nỗ lực để đảm bảo không những tiếp tục mở rộng độ bao phủ của dịch vụ và tiếp cận đến dịch vụ cho tất cả những người có nhu cầu, nhất là những người dễ bị tổn thương nhất, mà còn bảo đảm được chất lượng dịch vụ cũng như tính bền vững của các dịch vụ, đồng thời ngăn ngừa được tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử.

Nhiều sáng kiến mới và có triển vọng đang được thử nghiệm, như các cách thức và lựa chọn mới trong xét nghiệm HIV và dự phòng lây nhiễm HIV. Việc xem xét kỹ lưỡng các bài học kinh nghiệm thu được qua quá trình thử nghiệm và mở rộng, những cách làm cho thấy có hiệu quả là vô cùng quan trọng. Ngoài ra, việc tạo ra một môi trường chính sách và xã hội thuận lợi hơn và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về giới cũng rất cần thiết để có thể khuyến khích và hỗ trợ nhiều hơn nữa những người nhiễm HIV và người có nguy cơ cao trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ phòng chống HIV được an toàn, thoải mái. Chỉ có làm được như vậy chúng ta mới có thể khuyến khích được nhiều hơn nữa những người có nguy cơ cao tham gia xét nghiệm HIV, điều trị sớm nhất có thể và duy trì điều trị, cũng như khuyến khích họ sử dụng các dịch vụ giảm hại bao gồm điều trị thay thế bằng methadone. Đây là một thách thức lớn trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, bởi vậy việc xem xét làm sao để tăng được hơn nữa hiệu quả hiệu suất của chương trình phòng chống AIDS là việc nên làm.

Thời gian tới, UNAIDS sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam cả về chính sách và kỹ thuật trong những lĩnh vực nêu trên, nhằm giúp Việt Nam chuyển đổi thành công và duy trì bền vững đáp ứng với dịch HIV, bổ sung và hoàn thiện các thông tin chiến lược về dịch HIV, không ngừng hoàn thiện và mở rộng những mô hình can thiệp hiệu quả nhất để có thể tiến tới thực hiện được các mục tiêu to lớn về phòng, chống AIDS.

Trước khi đến Việt Nam, bà đã có nhiều năm công tác tại UNAIDS trên những cương vị khác nhau, xin bà chia sẻ những thực hành tốt và bài học kinh nghiệm quốc tế mà Việt Nam có thể tham khảo cũng như những kinh nghiệm hay của Việt Nam có thể chia sẻ với bạn bè quốc tế?

Bà Marie-Odile Emond: UNAIDS khuyến khích và hỗ trợ các quốc gia không ngừng cung cấp thêm các lựa chọn hiệu quả trong dự phòng lây truyền HIV. Ví dụ, tăng cường tiếp cận các nhóm đích, duy trì việc sử dụng bao cao su thường xuyên, cung cấp điều trị dự phòng trước phơi nhiễm PrEP, linh hoạt trong hoạt động phát và thu bơm kim tiêm; trong xét nghiệm HIV.

Tổ chức xét nghiệm tại cơ sở y tế, xét nghiệm do cộng đồng thực hiện và tự xét nghiệm; mở rộng tiếp cận đến điều trị sớm và có chất lượng, như áp dụng ‘xét nghiệm và điều trị’, chăm sóc theo nhu cầu, mở rộng độ bao phủ chương trình ở các vùng sâu vùng xa, trong các nhóm di biến động và trong trại giam. Mở rộng tiếp cận đến điều trị bằng methadone và điều trị nghiện tại cộng đồng cho người sử dụng ma túy cũng là một cách tiếp cận hiệu quả cả về góc độ y tế công cộng và quyền được chăm sóc sức khỏe.

Việt Nam áp dụng được nhiều sáng kiến mới và có những kinh nghiệm quý báu trong việc triển khai mở rộng các cách tiếp cận hiệu quả. Những bài học kinh nghiệm đó sẽ rất hữu ích cho các quốc gia khác tham khảo, học hỏi. Chương trình cung cấp rộng rãi dịch vụ điều trị thay thế các chất nghiện dạng thuốc phiện của Việt Nam, bao gồm cả trong tù, là một ví dụ rất ấn tượng để nhiều quốc gia khác học hỏi.

UNAIDS cũng khuyến khích những sáng kiến nhằm tạo ra một môi trường xã hội thuận lợi, thân thiện hơn cho những nhóm người có nguy cơ lây nhiễm cao, vì điều này sẽ giúp họ thoải mái hơn và sẵn sang tham gia xét nghiệm HIV, điều trị và duy trì điều trị HIV nếu cần.

Hiện UNAIDS đang hỗ trợ một số sáng kiến mới trong lĩnh vực này cả trên phạm vi toàn cầu, trong khu vực và ở Việt Nam, như sáng kiến giảm kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV trong các cơ sở y tế.

Cam kết chính trị mạnh mẽ của Việt Nam đối với phòng chống AIDS, bao gồm cam kết thực hiện những mục tiêu Dồn tổng lực cho phòng chống AIDS và tăng đầu tư trong nước cho HIV là một nguồn cảm hứng cho các quốc gia khác. Đặc biệt, những nỗ lực nhằm đưa các dịch vụ chăm sóc, điều trị HIV vào thanh toán bằng nguồn bảo hiểm y tế nhà nước là một chủ đề sẽ được nhiều quốc gia khác quan tâm tìm hiểu, trong xu thế lồng ghép các dịch vụ phòng, chống HIV vào hệ thống y tế chung và hệ thống an sinh xã hội để duy trì tính bền vững.

Ngoài ra, trong bối cảnh nguồn tài trợ quốc tế cho phòng chống AIDS đang giảm sút cả ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao hơn nữa hiệu suất của chương trình, thì việc phân bổ kinh phí dựa trên bằng chứng và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng các nguồn tài trợ hiện có là vô cùng quan trọng. Việt Nam đã và đang ngày càng làm tốt hơn trong lĩnh vực này, với sự tham gia hỗ trợ của UNAIDS và các đối tác phát triển khác.

Việt Nam cũng như các quốc gia khác, mỗi nơi đều có những bối cảnh và điểm mạnh riêng, vì vậy việc trao đổi, hợp tác Nam – Nam trong khu vực rất bổ ích cho tất cả các quốc gia và tôi mong rằng Việt Nam sẽ tiếp tục tích cực tham gia vào những hoạt động hợp tác này.

Trên hết, một yếu tố thiết yếu để có thể thành công đã được đúc kết trên phạm vi toàn cầu chính là mối quan hệ đối tác gắn kết chặt chẽ giữa những người làm chính sách, các tổ chức xã hội và cộng đồng bao gồm các tổ chức cộng đồng của người nhiễm HIV và những nhóm người có nguy cơ lây nhiễm cao, các đối tác phát triển. Việt Nam đã có được mối quan hệ đối tác này và đang ngày càng củng cố để gắn kết hơn, với điều đó tôi tin rằng Việt Nam đang có cơ hội rất tốt để đẩy nhanh tiến độ chương trình, hướng tới kết thúc thành công dịch AIDS. 

Xin bà cho biết những ưu tiến chiến lược của UNAIDS trong việc hỗ trợ cho công tác phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam thời gian tới?

Bà Marie-Odile Emond: Việt Nam và toàn thế giới đã cam kết và đang phấn đấu để thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) đến năm 2030 và qua đó không để người dân nào bị bỏ lại phía sau. HIV nằm trong Mục tiêu về y tế, đồng thời đóng góp cho việc thực hiện nhiều Mục tiêu khác. Tuyên bố Chính trị của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 2016 về Kết thúc dịch AIDS đã tái khẳng định mục tiêu về kết thúc dịch AIDS vào năm 2030 cũng như mối liên hệ giữa phòng chống AIDS và các nỗ lực phát triển khác, đồng thời giao nhiệm vụ thông qua các mục tiêu cụ thể và hướng dẫn các Quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc Dồn tổng lực nhằm kết thúc dịch AIDS, cũng như giao cho UNAIDS nhiệm vụ hỗ trợ các quốc gia trong nỗ lực to lớn này.

Việt Nam, với gánh nặng về dịch còn lớn nhưng có tiềm lực và cơ hội tốt để đẩy nhanh tiến độ phòng chống AIDS, đã được chọn là một trong các quốc gia ưu tiên để UNAIDS hỗ trợ. Việt Nam cũng đã cập nhật một số mục tiêu quốc gia về phòng chống AIDS theo khuyến cáo toàn cầu, bao gồm các mục tiêu 90-90-90 về xét nghiệm và điều trị HIV. UNAIDS sẽ tiếp tục các hỗ trợ về chính sách và kỹ thuật cho Việt Nam trong khuôn khổ phối hợp thực hiện chương trình nghị sự về sự phát triển bền vững (SDGs).

Một số lĩnh vực ưu tiên sẽ bao gồm xây dựng, hoàn thiện các chính sách, chương trình can thiệp và đầu tư hiệu quả, dựa trên bằng chứng cho dự phòng, chăm sóc và điều trị, và xóa bỏ phân biệt đối xử liên quan đến HIV, xúc tiến các hoạt động trao đổi và hợp tác Nam-Nam, phát huy hết tiềm năng của quan hệ đối tác và các nguồn lực quốc tế cho phòng chống AIDS, để thực hiện không có người dân nào bị bỏ lại phía sau trong phòng chống AIDS.

Xin trân trọng cảm ơn bà!
Top