Những bằng chứng khoa học giúp Việt Nam tiến tới kết thúc dịch AIDS

18/02/2020 09:54

Với những nỗ lực tiến tới mục tiêu kết thúc căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS ở Việt Nam vào năm 2030, các nhà khoa học Việt Nam đã và đang tích cực phối hợp các chuyên gia của nhiều nước trên thế giới để tìm ra những bằng chứng khoa học giúp cho ngành Y tế Việt Nam đưa ra các quyết đáp chuẩn xác trong hoạch định chính sách, cũng như các hướng dẫn kỹ thuật và quản lý điều trị.

  Xét nghiệm, phân tích các mẫu máu HIV tại phòng thí nghiệm. Ảnh: Thùy Chi

Theo số liệu thống kê của Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế, tính đến thời điểm hiện tại, cả nước phát hiện có khoảng 250.000 người nhiễm HIV, nam giới chiếm đa phần và đều ở độ tuổi trẻ. Trên 60% số người nhiễm thuộc 19 tỉnh phía nam, khác với bản đồ dịch cách đây hơn 1 thập kỷ khi tập trung chủ yếu ở miền Bắc.

Ông Võ Hải Sơn, đại diện Cục Phòng, chống HIV/AIDS cho biết, các trường hợp phát hiện mới tăng nhanh ở cộng đồng những người đồng tính nam (MSM), đẩy tỷ lệ hiện nhiễm lên khoảng 12% trong nhóm này, cao hơn các nhóm khác trong quần thể. Tình hình này đòi hỏi một mặt tiếp tục triển khai các biện pháp giảm nhanh dịch HIV ở nhóm tiêm chích ma túy, mặt khác có những giải pháp căn cơ với nhóm MSM.

Để đẩy lùi dịch bệnh HIV trong nhóm tiêm chích ma túy và tăng cường hiệu quả điều trị HIV, một nghiên cứu thử nghiệm do GS. Todd Korthuis (Đại học Khoa học và Sức khỏe Oregon) phối hợp với PGS.TS. Lê Minh Giang – Phó Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu về lạm dụng chất - HIV, cùng nhiều nhà khoa học Việt Nam tiến hành nhiều năm qua đã cho kết quả rất khả quan.

Nghiên cứu với tiêu đề “Sử dụng Buprenorphine/naloxone làm giảm tình trạng nghiện và tăng cường hiệu quả điều trị HIV tại Việt Nam (BRAVO). Chia sẻ kết quả công trình nghiên cứu, GS. Todd Korthuis cho biết, bên cạnh triển khai mở rộng điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế methadone, cần phải lồng ghép điều trị buprenorphine, một thuốc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện khác ngay trong các cơ sở điều trị HIV.

Cho biết nguyên nhân cần thực hiện việc này, GS. Todd Korthuis cho rằng, tỉ lệ sử dụng chất gây nghiện cao tại các phòng khám HIV ở nhiều quốc gia, nhưng tiếp cận điều trị hạn chế. Với 6 điểm nghiên cứu ở Hà Nội, Bắc Giang, Thanh Hóa, các nhà khoa học đã rút ra kết luận: Việc lồng ghép điều trị buprenorphine/naloxone tại phòng khám HIV là khả thi.

Cả buprenorphine và methadone đều cải thiện tỷ lệ bắt đầu điều trị, tuân thủ điều trị, tái khám ARV và ức chế virus HIV; đều có tác dụng giảm sử dụng heroin. Đặc biệt, ưu thế của buprenorphine là thuốc viên, dễ sử dụng và người dùng không phải hàng ngày đến uống như với methadone, tiết kiệm và chủ động được thời gian.

Một nghiên cứu khác về tương tác thuốc methadone và thuốc điều trị HIV (NVP/EFV) trên bệnh nhân nghiện ma túy nhiễm HIV bằng phương pháp đánh giá dược động học quần thể do GS. TS. Gavin Bart – Trưởng khoa Y học nghiện, Hệ thống Y tế hạt Hennepin, Đại học Minnesota – cùng TS. Jim Hodges, PGS. TS. Lê Minh Giang, Ths. Hoàng Yến và các cộng sự tiến hành cũng được đánh giá là nghiên cứu rất khả thì.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc uống song hành thuốc điều trị HIV làm tăng đào thải methadone gần 3 lần và mức độ đào thải chịu sự chi phối của các yếu tố kiểu hình gen xuất hiện ở nhiều nhóm trong cộng đồng.

Phát hiện này rất quan trọng vì nó cho thấy bệnh nhân vừa nghiện chất dạng thuốc phiện vừa nhiễm HIV gặp thách thức trong điều trị cả hai bệnh cùng một lúc. Do đó việc thí điểm điều trị buprenorphine của Bộ Y tế Việt Nam hiện nay là một hướng đi đúng, cần nhanh chóng mở rộng ra toàn quốc.

Việc lồng ghép điều trị và dự phòng cho người chích ma túy rất quan trọng, trong nhiều năm qua, các nhà nghiên cứu của Đại học North Carolnia (William Miller, Irving Hoffman, Vivian Go, và BS. Trần Việt Hà) phối hợp cùng Bộ Y tế và các cơ sở y tế ở Thái Nguyên triển khai nghiên cứu “Lồng ghép điều trị và dự phòng cho người chích ma túy: Nghiên cứu khởi đầu cho một thử nghiệm ngẫu nhiên dự phòng HIV dựa vào mạng lưới so sánh một chương trình can thiệp lồng ghép gồm hỗ trợ điều trị kháng vi rút với chương trình điều trị tiêu chuẩn” (HPTN 074).

Theo BS. Trần Việt Hà, nghiên cứu so sánh nhóm nhận thêm can thiệp lồng ghép cán bộ quản lý trường hợp và tư vấn tâm lý xã hội (SNaP) và nhóm nhận dịch vụ điều trị thông thường cho thấy: Tỷ lệ điều trị ARV và ức chế tải lượng virus tăng gần gấp đôi; tỷ lệ điều trị methadone tăng lên; tỷ lệ tử vong giảm trên 50%.

Đặc biệt, không có ca nhiễm HIV mới trong nhóm can thiệp bạn chích của người tham gia chỉ số. Nghiên cứu này cho thấy, bên cạnh các biện pháp điều trị bằng thuốc như buprenorphine hay methadone, người tiêm chích ma túy nhiễm HIV rất cần các can thiệp hỗ trợ tâm lý xã hội và can thiệp tại cơ sở y tế giúp họ nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ sẵn có.

BS. Trần Việt Hà cho biết, từ năm 2020, các can thiệp SNaP sẽ được mở rộng ở 10 tỉnh thành phố trên cả nước nhằm đánh giá hiệu quả mở rộng của can thiệp ở 42 cơ sở điều trị HIV.

Đối với nghiên cứu khoa học nhằm làm giảm lây nhiễm trong nhóm MSM, TS. Bùi Thị Minh Hảo từ Trung Tâm Đào tạo và Nghiên cứu về lạm dụng chất – HIV đã phối hợp thực hiện các nghiên cứu về thực trạng sử dụng chất ma túy khi quan hệ tình dục (chemsex) trong nhóm MSM của ông Đoàn Thanh Tùng từ Doanh nghiệp xã hội Hải Đăng (một tổ chức của cộng đồng MSM).

Cụ thể, kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ nhiễm mới rất cao, cứ một năm qua đi nếu không có can thiệp thì 7 trong số 100 người MSM ở Hà Nội sẽ nhiễm HIV (ước tính quần thể MSM ở Hà Nội là khoảng 35 ngàn người). Đó là việc sử dụng ma túy khi quan hệ tình dục nhóm (còn được biết đến trong cộng đồng MSM là highfun) là phổ biến và trong bối cảnh quan hệ tình dục như vậy các cá nhân thường không sử dụng các biện pháp an toàn hoặc quên không sử dụng thuốc dự phòng phơi nhiễm HIV (PrEP).

Nghiên cứu của TS. Bùi Thị Minh Hảo cho thấy, việc tiếp cận và tuân thủ uống thuốc PrEP ngày càng tốt hơn, nhưng việc sử dụng ma túy ở nhóm MSM sẽ là một thách thức lớn cho việc phòng chống HIV trong nhóm này.

Trong bối cảnh đó, một đại diện khác của Trung Tâm Đào tạo và Nghiên cứu về lạm dụng chất – HIV, TS. Nguyễn Thu Trang đã thực hiện một công trình nghiên cứu ý nghĩa: “Thí điểm can thiệp dựa trên bằng chứng giảm sử dụng methamphetamine tại Việt Nam”.

Công trình của TS. Nguyễn Thu Trang cho thấy, các mô hình can thiệp làm giảm sử dụng cả methamphetamine, heroin và cải thiện sức khỏe tâm thần và mức độ tự tin kiểm soát sử dụng methamphetamine. Tin nhắn SMS có thể giúp duy trì giảm sử dụng chất. TS. Trang cho biết tính khả thi của can thiệp thể hiện ở chỗ tỷ lệ bệnh nhân duy trì trong can thiệp cao. Kết quả này sẽ hỗ trợ Bộ Y tế xây dựng hướng dẫn triển khai để mở rộng can thiệp ATS tại các cơ sở điều trị methadone cũng như ở các tổ chức cộng đồng của người đồng tình nam trên toàn quốc.

Cho ý kiến đánh giá về các nghiên cứu khoa học trên, PGS.TS. Phạm Đức Mạnh – Phó Cục trưởng Cục Phòng chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) đánh giá, những nghiên cứu trên là những bằng chứng khoa học làm cơ sở cho Bộ Y tế xây dựng chính sách và các hướng dẫn kỹ thuật trong phòng, chống HIV/AIDS.

“Những nghiên cứu của Trung tâm về điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Suboxone, hay về tỷ lệ nhiễm mới HIV của nhóm MSM ở Hà Nội đã tạo căn cứ pháp lý để mở rộng các dịch vụ y tế đáp ứng nhu cầu mở rộng các can thiệp phòng, chống HIV trên toàn quốc. Điều này đáp ứng mong đợi rằng các kết quả nghiên cứu nhanh chóng chuyển thành các can thiệp có hiệu quả ở Việt Nam”, PGS.TS. Phạm Đức Mạnh nhận định.
Top