Đa số nghi phạm hiếp dâm là người quen

22/03/2018 09:42

Theo quan niệm, các vụ hãm hiếp thường do người lạ, gây thương tích và xảy ra ở nơi công cộng. Nhưng trên thực tế ở Việt Nam, 86% nạn nhân được hỏi nói rằng họ biết người bị tình nghi là thủ phạm và 76% nạn nhân không có dấu hiệu thương tích rõ rệt.

Chiều 21/3, Liên Hiệp Quốc (LHQ) tại Việt Nam công bố nghiên cứu "Xét xử tội hiếp dâm: Hiểu rõ cách ứng phó của hệ thống tư pháp hình sự đối với bạo lực tình dục ở Thái Lan và Việt Nam". Đây là nghiên cứu so sánh đầu tiên được thực hiện tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương do Cơ quan LHQ về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women) cùng với Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), Cơ quan Phòng chống Ma túy và Tội phạm của LHQ (UNODC) tổ chức.

Ảnh Nhật Thy

Các nhà nghiên cứu đã xem xét 290 hồ sơ vụ án của cảnh sát hoặc toà án và phỏng vấn 213 người bao gồm các quan chức chính phủ, nhân viên tư pháp, các nhà hoạt động xã hội dân sự và các nhà cung cấp dịch vụ cho nạn nhân sống sót.

Tại Việt Nam, nghiên cứu được tiến hành tại Hà Nội và Đắk Lắk.

Những phát hiện chính trong nghiên cứu chỉ ra rằng phần lớn các nạn nhân bị hãm hiếp ở Thái Lan và Việt Nam đều phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong việc tiếp cận công lý, một phần là do thái độ và hành vi phân biệt đối xử. Những khó khăn, thách thức này khiến các nạn nhân cảm thấy nản lòng, không muốn tiếp cận và tự ti ở mọi giai đoạn của quá trình xét xử, từ khâu trình báo ban đầu cho đến phiên tòa xét xử.

Các phát hiện của nghiên cứu chỉ ra nhiều yếu tố chính trong các vụ án hiếp dâm trái ngược hoàn toàn với các quan niệm sai lầm phổ biến về hãm hiếp. Theo quan niệm, các vụ hãm hiếp thường do người lạ, gây thương tích và xảy ra ở nơi công cộng. Nhưng trên thực tế ở Việt Nam, 86% nạn nhân được hỏi nói rằng họ biết người bị tình nghi là thủ phạm. Những phát hiện này có ý nghĩa quan trọng đối với các hệ thống pháp lý xử lý các tội phạm liên quan đến tình dục và tương tác với các nạn nhân bị bạo lực tình dục.

Nghiên cứu cũng chỉ ra những định kiến đã ăn vào gốc rễ cả người Việt và người Thái, chẳng hạn như không có chuyện chồng cưỡng bức vợ. Ngay cả cán bộ thực thi pháp luật cũng giữ những định kiến như vậy.

Tại Việt Nam, chưa có trường hợp 'chồng cưỡng bức vợ' nào được báo cáo. Có một 'niềm tin' phổ biến là: Đã là vợ thì luôn luôn phải 'chiều' chồng chừng nào cuộc hôn nhân còn tồn tại.

Một học giả nữ cho hay, "Công an và hội phụ nữ không tin cưỡng hiếp có thể xảy ra giữa vợ chồng. Do đó họ thường tìm cách giải quyết vấn đề thông qua hòa giải."

Hay, nạn nhân của các vụ cưỡng bức thường phải tỏ ra sợ hãi, đau khổ. Nếu họ tỉnh táo và bình tĩnh, chứng tỏ họ không phải là 'nạn nhân'. Cưỡng bức một cô gái còn trinh tiết thì nặng tội hơn cưỡng bức một phụ nữ có chồng. Thậm chỉ đổ lỗi cho người bị hãm hiếp rằng họ đã ăn mặc 'khiêu khích' nên 'đáng bị hãm hiếp'.

Bên cạnh đó, phụ nữ bị xâm hại tình dục khi đến trình báo thường phải đối mặt với những rào cản pháp lý‎ phức tạp, cộng với thái độ và hành vi thiếu nhạy cảm giới của cán bộ thực thi pháp luật. Nạn nhân thường phải kể đi kể lại nhiều lần với nhiều người thực thi công vụ. Một nạn nhân cho biết đã phải tới sở cảnh sát hơn 10 lần để báo cáo.

Ngoài ra, thủ tục tố tựng còn quá phụ thuộc vào chứng cứ pháp y, trong khi 76%  nạn nhân bị bạo lực tại Việt Nam thương tích không nhìn thấy được. Cách thức xác định tội danh tình dục có thể dẫn đến việc chuyển trọng tâm sang hành vi của nạn nhân thay vì chú trọng tới hành vi của bị cáo. Đó là sự chú trọng vào mức độ tin cậy đối với nạn nhân thay vì chú trọng vào mức độ tin cậy của sự việc

Dựa trên những phát hiện này, nghiên cứu đưa ra các khuyến nghị ưu tiên để cải thiện tình hình như: Việt Nam cần thiết lập dịch vụ tư pháp thiết yếu có chất lượng cho nạn nhân, ưu tiên việc bảo vệ, hỗ trợ họ; thúc đẩy hoạt động ứng phó tích hợp, có điều phối giữa ngành tư pháp hình sự, chính phủ và các tổ chức xã hội…

 

Top