Bảo vệ lao động nữ khỏi nguy cơ bị quấy rối tình dục: Cấp thiết hoàn thiện khung pháp luật
Làm thế nào để bảo vệ lao động nữ khỏi nguy cơ bị quấy rối tình dục khi mà cơ chế pháp lý còn có bất cập là một trong những câu hỏi được tổ chức UN Women đặt ra. Nội dung này được đề cập rõ trong Báo cáo đánh giá tác động của chính sách bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới của người lao động để tham vấn về thúc đẩy bình đẳng giới trong sửa đổi Bộ luật Lao động của Việt Nam thông qua Dự án Investing in Women.
Nữ chuyên viên bị đối tượng Tr hôn bầm môi tại Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Triệu Phong (Quảng Trị)
Khi khái niệm quấy rối tình dục còn mơ hồ
Theo các chuyên gia của Dự án Investing in Women, Bộ luật Lao động được ban hành từ năm 1994 và đã qua 4 lần sửa đổi bổ sung vào các năm 2002, 2006, 2007 và 2012 nhưng khuôn khổ pháp lý hiệu quả phòng chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc còn nhiều bất cập, khả năng áp dụng không cao và còn thiếu nhiều quy định cụ thể nên vấn nạn quấy rối tình dục tại nơi làm việc vẫn xảy ra thường xuyên, liên tục mà chưa bị xử lý nghiêm minh. Các bất cập về pháp luật bao gồm thiếu định nghĩa, giải thích từ ngữ về quấy rối tình dục tại nơi làm việc, thiếu quy định cụ thể về nghĩa vụ và trách nhiệm của người sử dụng lao động trong phòng chống quấy rối tình dục, thiếu quy trình phòng chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và các chế tài liên quan.
Các chuyên gia nhận định hầu hết nạn nhân của quấy rối tình dục là phụ nữ, thường ở vị thế thấp, dưới quyền, trong tình trạng phụ thuộc người quấy rối và hình thức, hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc ở Việt Nam rất đa dạng. Về phía người lao động, nạn nhân bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc có thể không nhận thức được nên không có phản ứng hoặc nhận thức được nhưng không lên tiếng mà âm thầm chịu đựng do lo sợ bị mất việc làm, bị chèn ép, cắt giảm lương, bị gây khó khăn trong công việc, do đó chỉ dám nói ra khi rơi vào tình trạng bị quấy rối nghiêm trọng, hoặc đã chuyển sang công việc khác.
Trong khi người lao động im lặng, cam chịu thì người sử dụng lao động phần nhiều thường có thái độ bỏ qua hoặc nếu có xử lý thì chỉ ở mức cảnh cáo nhẹ để tránh gây thiệt hại về uy tín cho doanh nghiệp. Trừ một số ít tập đoàn, công ty lớn đã xây dựng nội quy về vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc, còn đại đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình, cá nhân sử dụng lao động đều chưa đưa vấn đề quấy rối tình dục vào trong nội quy lao động.
Cần sớm bịt lỗ hổng pháp lý
Năm 2015, được sự hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức Lao động quốc tế ILO, Bộ LĐTB&XH đã phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và VCCI xây dựng “Bộ quy tắc ứng xử về quấy rối tình dục tại nơi làm việc”. Đây được coi như một khuyến nghị mạnh mẽ, rõ ràng, hướng dẫn cho người sử dụng lao động cùng với người lao động xây dựng, lồng ghép vào nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp làm cơ sở cho việc phòng, chống hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Tuy nhiên, đây không phải là văn bản quy phạm pháp luật, không mang tính bắt buộc nên mức độ ảnh hưởng và tác động còn hạn chế.
Do đó, các chuyên gia cho rằng việc hoàn thiện khung pháp luật về phòng chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trong Bộ luật Lao động sửa đổi là cấp thiết, trong đó cần quy định rõ về nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong việc xây dựng và thực thi chính sách chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Các biện pháp phòng ngừa, xử lý và khắc phục hậu quả cũng cần được quy định rõ ràng như một số nước đã làm.
Việc hoàn thiện khung pháp lý về vấn đề này giúp doanh nghiệp đáp ứng tốt hơn các chuẩn mực lao động của khách hàng, tạo được một môi trường làm việc an toàn hơn đồng thời cho phép phòng ngừa và bảo vệ người lao động khỏi quấy rối tình dục tại nơi làm việc; giúp người lao động nhận biết rõ, sớm hành vi quấy rối tình dục và các công cụ pháp lý để bảo vệ mình, không còn phải âm thầm chịu đựng hoặc bỏ việc; đề cập đến quy định về quy trình, thủ tục tiếp nhận thông tin, xử lý hành vi quấy rối tình dục, bảo vệ nạn nhân.