Vì sao cần Luật HIV có tính nhạy cảm giới?

21/11/2016 09:53

Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) đang tiến hành soạn thảo Luật HIV có tính nhạy cảm giới. Nhiều ý kiến cho rằng, cần có cơ chế luật pháp và chính sách rõ ràng để xóa bỏ phân biệt đối xử đối với phụ nữ nhiễm HIV và có thể phòng, chống nguy cơ lây nhiễm HIV ở nhóm phụ nữ gặp nguy cơ lây nhiễm cao.

Ảnh minh họa

Đây sẽ là chìa khóa để các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS của Quốc gia đạt hiệu quả cao. Tại sao ở thời điểm này vấn đề giới lại được đề cập tới trong hoạt động phòng chống HIV/AIDS?

Theo thống kê của Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women), năm 2007, cứ 4 người nhiễm HIV mới có một người là nữ thì đến năm 2014, cứ 3 người nhiễm HIV thì 1 người là nữ. 

Tại Việt Nam hiện nay, lây truyền qua đường tình dục là nguyên nhân lây nhiễm HIV phổ biến nhất. Một nửa các ca nhiễm HIV mới trong năm 2014 là xuất phát từ nguyên nhân này. Trong khi đó, tỷ lệ này trong năm 2000 là 1/10.

Theo một báo cáo gần đây, hơn 50% phụ nữ nhiễm HIV cho biết, nguyên nhân do họ bị lây nhiễm từ những người chồng hoặc bạn tình có những hành vi có nguy cơ nhiễm bệnh cao, nhưng chỉ có 40% phụ nữ có hiểu biết về ngăn ngừa sự lây truyền HIV qua đường tình dục. Phụ nữ và trẻ em gái chưa được tiếp cận với các dịch vụ tư vấn về sức khỏe tình dục, sức khỏe sinh sản, do đó nguy cơ nhiễm HIV của họ là cao hơn. 

Bà Shoko Ishikawa, Trưởng đại diện UN Women chi biết, phụ nữ và trẻ em gái nhiễm HIV đang phải đối mặt với những hình thức phân biệt đối xử nghiêm trọng. Trong số họ có nhiều người bị mất nhà, mất quyền nuôi con, mất tài sản và các quyền thừa kế. Trong bối cảnh số lượng phụ nữ bị nhiễm mới HIV đã tăng lên như hiện nay, cần phải hành động một cách nghiêm túc.

Lồng ghép giới trong công tác phòng, chống HIV là vấn đề được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và áp dụng. Theo UN Women, trên toàn thế giới, hoạt động phòng chống HIV và bình đẳng giới là nội dung quan trọng trong các Mục tiêu thiên niên kỷ vừa được thông qua vào năm 2015, những mục tiêu này hiện đang trở thành chương trình hành động toàn cầu trong vòng 15 năm tới. 

Tuy nhiên, ở Việt Nam, đánh giá gần đây về các hoạt động phòng, chống HIV cũng như về các cơ chế giám sát và đánh giá từ quan điểm giới đã cho thấy, các đối tác tham gia vào hoạt động này chưa có nhận thức đầy đủ về giới, cũng như chưa có đầy đủ thông tin về cách thức làm thế nào để có thể đáp ứng được nhu cầu của những phụ nữ nhiễm HIV trong các hoạt động lập kế hoạch và lên chương trình cho các hoạt động phòng, chống HIV. Hệ quả là trong Kế hoạch Quốc gia về phòng, chống HIV hầu như chưa đề cập nhiều về phụ nữ, các báo cáo về HIV cũng chưa có các số liệu phân tách về giới và độ tuổi. Hoạt động phòng, chống hiện nay mới chỉ tập trung chủ yếu vào phụ nữ có thai, lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, những tổn hại của nhóm phụ nữ bị tổn thương và trẻ em gái. 

Ông Phạm Đức Mạnh, Phó Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho hay, hiện nay chúng ta chưa có nhiều các cơ chế pháp luật và chính sách hướng đến đối tượng là phụ nữ và trẻ em gái nhiễm HIV. Hiểu biết trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế. Chỉ có vài chỉ số đánh giá tập trung vào nữ giới nhiễm HIV và hệ thống đánh giá tập trung vào các số liệu định lượng và các trường hợp điển hình. Điều này đã dẫn đến thực tế là chúng ta chưa có nhiều thông tin để đánh giá được tính hiệu quả của công tác phòng, chống HIV đối với phụ nữ, rộng hơn nữa là chất lượng và tính hiệu quả của chương trình phòng, chống HIV nói chung. Cùng với những hiểu biết hạn chế về giới, đây đang trở thành những rào cản đối với hoạt động phòng, chống HIV của quốc gia.

Cục Phòng chống HIV/AIDS hiện đang đánh giá lại Chương trình Quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2016-2020 và chuẩn bị xây dựng Hướng dẫn lập kế hoạch phòng chống AIDS năm 2017. Nhiều ý kiến cho rằng, đây là thời điểm quan trọng để bảo đảm rằng các ưu tiên về giới sẽ được phản ánh trong các kế hoạch, chương trình phòng chống HIV từ năm 2017 và những năm tiếp theo.

Top