TPHCM: Thiết lập hệ thống thông tin quản lý về tệ nạn mại dâm

07/10/2021 17:04

(Chinhphu.vn) - TPHCM sẽ rà soát thống kế, đánh giá thực trạng tình hình tệ nạn mại dâm, tình hình tội phạm liên quan đến mại dâm, các cơ sở kinh doanh dịch vụ vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm làm cơ sở xây dựng dữ liệu, thiết lập hệ thống thông tin quản lý về tình hình tệ nạn mại dâm trên địa bàn quản lý.

 

Ước tính có khoảng 2.500 người nghi vấn hoạt động mại dâm trên địa bàn TPHCM. Ảnh minh họa

UBND TPHCM vừa ban hành kế hoạch phòng, chống mại dâm năm 2021 trên địa bàn TPHCM. Theo đó, mục tiêu đề ra là 100% TP.Thủ Đức, các quận, huyện và phường, xã, thị trấn tổ chức triển khai các hoạt động truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống mại dâm bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng, đặc biệt trên các trang mạng xã hội, internet… nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong công tác phòng, chống mại dâm, giảm sự kỳ thị và phân biệt đối với người bán dâm;  tổ chức triển khai chương trình phòng, chống tệ nạn mại dâm lồng ghép nhiệm vụ phòng, chống mại dâm với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, chương trình giảm nghèo và an sinh xã hội.

100% TP.Thủ Đức và các quận, huyện kiện toàn Đội kiểm tra liên ngành văn hóa-xã hội theo Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15/10/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm.

100% cán bộ trực tiếp làm công tác phòng, chống tệ nạn xã hội tại TP.Thủ Đức, các quận, huyện và phường, xã, thị trấn; đội công tác xã hội tình nguyện được tập huấn, nâng cao năng lực về tiếp cận, truyền thông và tổ chức điều hành, phối hợp liên ngành trong công tác phòng, chống mại dâm.

Thường xuyên tổ chức kiểm tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ phát sinh tệ nạn mại dâm trên địa bàn TP. Phấn đấu ít nhất 80% các vụ việc, hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm được phát hiện và xử lý theo quy định; giải quyết, xét xử các vụ án liên quan đến mại dâm đạt từ 90% trở lên.

Phấn đấu 100% số người bán dâm có nhu cầu được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ hỗ trợ xã hội phù hợp; duy trì và nâng cao hiệu quả họat động của các mô hình thí điểm về công tác hỗ trợ, giúp đỡ người bán dâm hòa nhập cộng đồng, người bán dâm tham gia mô hình được giới thiệu, chuyển gửi, tiếp cận với các dịch vụ về tư vấn pháp lý-tâm lý, chăm sóc sức khoẻ, dạy văn hóa, dạy nghề, giải quyết việc làm và hỗ trợ vay vốn gắn với các chương trình an sinh xã hội của địa phương, giúp cho họ ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng đồng bền vững.

Ngoài đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phòng, chống mại dâm, Thành phố sẽ tập huấn nâng cao năng lực cho mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền, tình nguyện viên, cộng tác viên các cấp về hỗ trợ thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quy trình hỗ trợ giảm hại, hòa nhập cộng đồng và gói dịch vụ hỗ trợ xã hội đối với người bán dâm và hướng dẫn cộng đồng về phòng, chống mại dâm.

Tổ chức rà soát, đánh giá về nhóm người có nguy cơ cao sa vào tệ nạn mại dâm và các chương trình an sinh xã hội, các chương trình phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương, để hướng mục tiêu của các chương trình tuyên truyền, truyền thông đến các nhóm đối tượng này.

Bên cạnh đó, rà soát, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, phòng chống tệ nạn xã hội, y tế, cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; từ đó, tổng hợp kiến nghị, đề xuất đến các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh, thay thế các quy định không còn phù hợp, ban hành mới những văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về phòng, chống mại dâm.

Đánh giá các mô hình thí điểm về hỗ trợ người bán dâm, triển khai thực hiện định mức kinh tế-kỹ thuật các dịch vụ hỗ trợ cho người bán dâm tại cộng đồng và cơ sở trợ giúp xã hội; tiếp tục duy trì và nhân rộng các mô hình thí điểm có hiệu quả theo hướng hỗ trợ trao quyền, tăng cường sự tham gia của các nhóm đồng đẳng, nhóm tự lực, câu lạc bộ của người bán dâm trong việc giải quyết các vấn đề liên quan của người bán dâm; căn cứ tình hình thực tiễn của địa phương, UBND TP.Thủ Đức và các quận, huyện bố trí nguồn lực để tổ chức hệ thống dịch vụ hỗ trợ xã hội cho người bán dâm.

Đồng thời, rà soát thống kê, đánh giá thực trạng tình hình tệ nạn mại dâm, tình hình tội phạm liên quan đến mại dâm, các cơ sở kinh doanh dịch vụ vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm làm cơ sở xây dựng dữ liệu, thiết lập hệ thống thông tin quản lý về tình hình tệ nạn mại dâm trên địa bàn quản lý.

Tiến hành điều tra cơ bản, áp dụng các biện pháp nghiệp vụ tập trung vào các tuyến đường, địa bàn trọng điểm để phòng, ngừa, phát hiện ngăn chặn tội phạm liên quan mại dâm; tổ chức điều tra, đấu tranh, triệt phá các vụ án có tổ chức phạm tội liên quan đến tệ nạn mại dâm, giải cứu nạn nhân bị mua bán; kiện toàn Đoàn, Đội, tổ kiểm tra liên ngành văn hóa-xã hội...

2.500 người nghi vấn hoạt động mại dâm

Theo số liệu thống kê hiện nay, trên địa bàn TPHCM có trên 25.000 lao động nữ làm việc tại 8.674 cơ sở kinh doanh dịch vụ và ước tính có khoảng 2.500 người nghi vấn hoạt động mại dâm; có 20 điểm, tụ điểm, tuyến đường thuộc TP.Thủ Đức và 10 quận, huyện (gồm 26 phường, xã, thị trấn) có phát sinh tệ nạn mại dâm nơi công cộng.

Tuy nhiên, con số thực tế có thể còn cao hơn, do đây là hoạt động rất khó kiểm soát bởi tính phức tạp, di biến động, tinh vi và trá hình của nó vẫn còn diễn biến khó lường. Ngoài số đối tượng hoạt động mại dâm theo phương thức cũ như đường dây mại dâm hoạt động theo hình thức “gái gọi”, mại dâm đứng đường đón khách, hoạt động mại dâm trong các khu dân cư, các đối tượng tổ chức hoạt động mại dâm trá hình trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ “nhạy cảm”...

Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, đối tượng tổ chức mại dâm đã lợi dụng hình thành các đường dây môi giới theo hình thức “gái gọi” thông qua mạng Internet, sử dụng các trang website... hoặc thông qua ứng dụng trên mạng xã hội như Facebook, Zalo, Viber, Wechat... hay các cơ sở kinh doanh dịch vụ (spa, massage) trá hình hoạt động mại dâm đồng tính nam, các đường dây sextour có tính quốc tế vượt ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, do đó các đơn vị chức năng rất khó khăn trong công tác đấu tranh, truy quét, triệt phá.

Top