Truyền thông góp phần giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS

31/10/2014 14:22

Trong khoảng chục năm trở lại đây, công tác truyền thông trong phòng, chống HIV/AIDS đã có nhiều bước chuyển đổi. Nhờ truyền thông, mọi người đã hiểu được nhiễm HIV/AIDS là một quá trình kéo dài, người nhiễm vẫn có khả năng làm việc, sinh sống bình thường nếu được điều trị và chăm sóc tốt.

Dịch HIV/AIDS xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 90 của Thế kỷ trước, bắt đầu hầu hết từ những người nghiện chích ma túy sử dụng chung bơm kim tiêm và phụ nữ có quan hệ tình dục với nhiều người. Từ đó, định kiến về người nhiễm HIV là những người mắc các tệ nạn xã hội. Mặt khác, trước đây HIV được biết đến như một bản án tử hình, rất nguy hiểm, vô phương cứu chữa và dễ bị lây nhiễm kể cả qua tiếp xúc thông thường. Chính vì những suy nghĩ như trên mà người nhiễm bị kỳ thị và phân biệt đối xử nặng nề.

Kỳ thị với người nhiễm HIV/AIDS là thái độ coi thường, làm mất thể diện hay không tôn trọng một người hoặc gia đình họ vì biết họ nhiễm hoặc nghi ngờ bị nhiễm HIV/AIDS. Kỳ thị có thể do các cá nhân, bạn bè, gia đình, cộng đồng và cả cán bộ y tế, thậm chí từ phía chính quyền gây ra với người nhiễm HIV/AIDS.

Bên cạnh đó, kỳ thị còn do chính người nhiễm HIV/AIDS gây ra (tự kỳ thị) vì thấy mình không được những người xung quanh chấp nhận hay mặc cảm với hoàn cảnh của mình. Những bài học kinh nghiệm trong phòng, chống HIV/AIDS cho thấy, dù ở bất cứ đâu và dù bị lây nhiễm HIV vì bất cứ lý do nào nếu không được xã hội tạo môi trường thuận lợi, những người nhiễm HIV thường phải giấu diếm, lẩn trốn khỏi cộng đồng.

Sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử, những người có hành vi nguy cơ bị nhiễm HIV không dám đi làm xét nghiệm, nhiều người biết tình trạng nhiễm HIV không dám tiếp cận với điều trị để bảo vệ họ và những người khác làm tăng nguy cơ lây nhiễm ra cộng đồng.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhờ truyền thông, mọi người đã hiểu được nhiễm HIV/AIDS là một quá trình kéo dài, người nhiễm vẫn có khả năng làm việc, sinh sống bình thường nếu được điều trị và chăm sóc tốt với bằng chứng là những nhân vật cụ thể đã sống khỏe mạnh sau 15 - 20 năm kể từ khi phát hiện nhiễm HIV.

Bằng những hình thức khác nhau, căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS đã không còn bị mọi người hình dung, “hù dọa” với những hình ảnh chết chóc, đầu lâu xương chéo hay hình ảnh những người lở loét toàn thân, gầy dơ xương... Những hình ảnh truyền thông đó vô tình đã tạo sự hiểu lầm, khiến cộng đồng sợ hãi.

Khoảng chục năm trở lại đây, công tác truyền thông về HIV/AIDS đã chú trọng đến việc cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác, giải thích rõ những nguy cơ bị lây truyền và không thể lây truyền HIV.

Bên cạnh công tác này, chúng ta cũng đã tăng cường truyền thông về lợi ích của điều trị bằng thuốc kháng vi rút, mặc dù đây không phải là thuốc chữa khỏi được HIV những rất đặc hiệu cho việc ức chế sự nhân lên của vi rút làm cho sức khỏe của người nhiễm HIV được nâng lên và không bị mắc các nhiễm trùng cơ hội.

Ngoài ra, nhiều gương người nhiễm HIV vượt lên số phận, sống có ích cho xã hội, cộng đồng cũng được tăng cường biểu dương. Thông qua các đơn vị truyền thông đại chúng và một mạng lưới tuyên truyền viên, công tác viên ở nhiều thành phần xã hội cũng đã tham gia các hoạt động nhằm giúp chống kỳ thị, phân biệt đối xử đối với những người nhiễm HIV/AIDS.

Sau nhiều năm đổi mới trong truyền thông phòng, chống HIV/AIDS, nhận thức của cộng đồng về HIV/AIDS đã từng bước nâng lên, đồng thời tạo sự cảm thông, chia sẻ, tiến tới xóa bỏ kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS. Kết quả là số người nhiễm HIV tiếp cận với điều trị hiện nay tăng gấp hơn 20 lần so với năm 2005, hàng trăm nghìn người có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV tiếp cận với tư vấn xét nghiệm HIV mỗi năm, số người nghiện chích ma túy tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone ngày càng tăng. Điều này đã chứng tỏ, công tác truyền thông góp phần rất quan trọng trong sự thành công chung của công tác phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.

Top