Những phương pháp điều trị đồng tính “dã man” đầu thế kỷ 20

27/08/2014 17:45

Đầu thế kỷ 20, cùng với sự phát triển của tâm lý học, định nghĩa đồng tính luyến được chuyển từ tự tội phạm sang bệnh tâm thần. Cũng trong giai đoạn này, người ta đã phát minh ra nhiều cách để đối phó với “chứng bệnh cứng đầu” này như cắt bỏ thùy não, thiến hóa học, sốc điện...

Thuật ngữ đồng tính luyến (homosexual) xuất hiện sớm nhất vào thế kỷ 17. Nhà văn Hungarry, Kertbeny đã từng sử dụng từ này trong một bài viết chỉ trích chính quyền đế quốc Đức phán hành vi đồng tính là có tội. Ông dùng cụm từ homosexual thay cho cụm từ pederast mang hàm ý kì thị thời bấy giờ.

Những năm đầu thế kỷ 20, đồng tính luyến ái vẫn còn bị coi là một tội lỗi ở phương Tây, bị xã hội sợ hãi, tẩy chay và thậm chí là thù hận. Nhiều người đồng tính nam đã phải học Karate để tự vệ, phòng ngừa bị hành hung.

Một người đồng tính nam đã phải học Karate để tự vệ, phòng ngừa bị hành hung. Ảnh chụp vào năm 1971.

Sau khi tâm lý học và tâm thần học phát triển thành một bộ phận quan trọng của y học, đồng tính luyến ái được coi là bệnh tâm thần. Một số chuyên gia y tế cho rằng sau khi điều trị, người đồng tính có thể thay đổi xu hướng tình dục. Trong những năm 1957, có một số tạp chí y khoa năm đã có những bài viết tuyên bố: Đồng tính luyến ái là một căn bệnh tâm thần và có thể chữa khỏi.

Một tạp chí y khoa năm 1957 với bài viết tuyên bố: Đồng tính luyến ái là một căn bệnh tâm thần và có thể chữa khỏi

Vào thập niên 40 của thế kỷ 20, những người đồng tính bắt đầu bị yêu cầu điều trị tâm thần. Quá trình điều trị cam kết với người nhà bệnh nhân là không thả bệnh nhân đi trước khi điều trị khỏi hoàn toàn. Phương pháp điều trị phổ biến bao gồm: cầu nguyện, thôi miên, thiến hóa học, liệu pháp sốc điện, điều trị ác cảm, cắt bỏ thùy não.

Một trang quảng cáo Lễ kỷ niệm loại bỏ thành công bệnh đồng tính luyến với tít "Chúng tôi đến đây để ủng hộ cho sự thật bệnh đồng tính luyến có thể được thay đổi."

Phẫu thuật cắt bỏ thùy não là một phẫu thuật thần kinh được dùng để điều trị bệnh tâm thần, bao gồm cả những người đồng tính trong những năm đầu thế kỷ 20. Các bác sĩ phẫu thuật dùng mũi kim tiêm làm bằng nước đá đâm vào trong não bệnh nhân thông qua mắt, phá hủy các dây thần kinh ở trán.

Một ca phẫu thật cắt bỏ thùy não do các chuyên gia Freeman tiến hành. Freeman thực hiện hàng ngàn ca phẫu thuật, 40% người bị điều trị là đồng tính.

Để giúp điều trị cho người đồng tính khỏi bệnh, thời đó người ta còn cho ban hành bản hướng dẫn sử dụng thiết bị Farrall tại gia. Farrall bao gồm một máy chiếu và một công cụ gây sốc điện để “bệnh nhân” sử dụng, tự điều trị ở nhà. Khi vận hành, máy chiếu sẽ xuất hiện hình ảnh các cô gái “trung tính” và sẽ sốc điện “bệnh nhân” mỗi khi xuất hiện các bức hình nam giới.

Bản hướng dẫn

Máy Farrall sử dụng nguyên lý trị liệu gây ác cảm: Khi sử dụng, “người bệnh” có thể nhấn nút “đổi” loại bỏ hình ảnh những người đàn ông để tránh bị điện giật.

Kirk Andrew Murphy

Một trong những ca trị liệu xu hướng tình dục “thành công” thường xuyên được nhắc đến thời bấy giờ là ca Điều trị thử nghiệm cậu bé nữ tính. Năm 1970, cậu bé 5 tuổi, Kirk Andrew Murphy, bị bố mẹ phát hiện có những cử chỉ nữ tính và bị đem đến Đại học California Los Angeles (UCLA) để tham gia vào một dự án trị liệu dài hơi, cập nhật hàng tháng.

Người dẫn đầu thử nghiệm trị liệu đồng tính, George Alan Rekers, yêu cầu bố mẹ Kirt điều chỉnh hành vi cho cậu bé bằng cách đối xử lạnh lùng, sử dụng nhục hình và những phương tiện khác để trừng trị Kirt mỗi khi cậu có cử chỉ nữ tính. Chỉ cần bộc lộ dấu hiệu đồng tính, Kirt sẽ bị bỏ rơi, đánh đập thậm tệ. 

Kirk Andrew Murphy khi trưởng thành

Sau khi trưởng thành, cử chỉ và hành vi của Kirk hoàn toàn nam tính. Thậm chí, anh còn tham gia vào lực lượng không quân nơi cấm đồng tính rồi trở thành doanh nhân sau khi thoái ngũ. Gia đình anh bắt đầu tin tưởng rằng anh sẽ có cuộc sống hạnh phúc thuận lợi thì Kirk treo cổ tự vẫn, kết thúc cuộc đời mới chỉ 38 tuổi của mình. Sau cái chết của anh 6 năm, người đứng đầu nhóm trị liệu cho anh, bác sĩ Rekers vẫn lôi anh ra làm ví dụ thành công cho phương pháp điều trị của mình.

Một cảnh bạo loạn chống người đồng tính ở Stonewall năm 1969

Cuối thập niên 60 thế kỷ 20, hệ thống tư pháp Mỹ vẫn phân biệt đối xử nghiêm trọng với người đồng tính. Cảnh sát thường xuyên đến các quán bar và các câu lạc bộ đồng tính luyến ái vào ban đêm. Các cử chỉ như hôn, nắm tay hay thậm chí là chỉ xuất hiện tại quán bar đồng tính cũng trở thành chứng cứ để bị bắt giữ. Tuy nhiên, một bước ngoặt lớn đã đến với cộng đồng người đồng tính: Sáng ngày 28/6/1969, nhóm LGBT thành phố New York trong quán Stonewall đã chống lại sự truy bắt của cảnh sát, dẫn đến một loạt các vụ đụng độ bạo lực.

Lễ kỷ niệm sự kiện Stonewall tổ chức ngày 29/6/1979 tại New York, lần đầu tiên tổ chức diễu hành Tự hào đồng tính.

Sự kiện Stonewall được coi là cuộc đứng dậy đầu tiên trong lịch sử của cộng đồng đồng tính tại Mỹ chống lại sự đàn áp bất công của chính phủ. Nó là ngọn lửa khơi bùng lên phong trào đòi quyền đồng tính trên toàn cầu.

Cùng với sự gia tăng của các nhóm giải phóng quyền lợi cho người đồng tính trên toàn cầu, thái độ của xã hội đối với người đồng tính từng bước được cải thiện. Hiệp hội Tâm thần Mỹ quyết định đưa đồng tính ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần.

Hình chụp một đôi đồng tính nam hôn nhau trong hoạt động diễu hành của người đồng tính tại Paris, Pháp vào năm 1982. Một tháng sau nụ hôn này, nước Pháp chính thức bãi bỏ luật trừng phạt người đồng tính.

Năm 2012, cựu chủ tịch Hiệp hội Tâm thần Mỹ, Robert Spitzer, người từng tiến hành nghiên cứu và đưa ra kết luận “đồng tính có thể chữa trị” đã đăng tải một video thừa nhận sai lầm trong nghiên cứu và rút lại toàn kết luận trước kia của mình, công khai xin lỗi cộng đồng LGBT.

Tổng thống Obama chính thức bãi bỏ chính sách “Không hỏi, không nói”

Ngày 22/12/2010, Tổng thống Obama chính thức bãi bỏ chính sách “Không hỏi, không nói”, cho phép quân đội Mỹ chấp nhận người đồng tính công khai tham gia quân đội. Chính sách “không hỏi, không nói” được sử dụng để đối đãi với các quân nhân đồng tính luyến trong giai đoạn 1994 -2010, do cựu tổng thống Bill Clinton để xuất, đại ý chỉ cần quân nhân không chủ động để lộ khuynh hướng tình dục của bản thân, thượng cấp không được phép tìm cách thử để khiến họ bộc lộ và bị khai trừ.

Top