Những nguy hại khủng khiếp của các loại ma túy mới

11/02/2019 09:41

Thời gian gần đây, bên cạnh việc giới trẻ thường dùng những loại MTTH, phổ biến như ketamine, methamphetamine, estacy… thì bắt đầu có một bộ phận sử dụng, lạm dụng, sa vào một số loại chất hướng thần mới (NPS), điển hình là nhóm các chất cần sa tổng hợp (XLR-11) được tẩm ướp dạng thảo mộc hoặc có chứa thành phần chất Cathinone…

Ma túy nhóm ATS ngày càng được sử dụng phổ biến trong giới trẻ trên thế giới và ở Việt Nam

Việc sử dụng những loại ma túy mới này đã gây ra nhiều hậu quả đáng lo ngại cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Về mặt y tế, hiện việc điều trị nghiện amphetamin và các chất dạng amphetamin rất khó khăn. Mối nguy hại hiện nay là các chất ma túy, hướng thần này gây ảnh hưởng đến não rất nghiêm trọng, nhiều vụ án mạng do tâm thần- ma túy gây ra cũng xuất phát từ việc lạm dụng những chất độc này.

Chất kích thích dạng Amphetamin (Amphetamin Type Stimulants- ATS một dạng chất MTTH) là tên gọi chung của một nhóm chất kích thích có cấu trúc hóa học dạng Amphetamin. Chúng có tác dụng kích thần gây cảm giác hưng phấn, khoái cảm, chống mệt mỏi… khi sử dụng liều cao kéo dài có thể gây hoang tưởng, ảo giác. Những năm gần đây nhóm ATS ngày càng được sử dụng phổ biến trong giới trẻ trên thế giới và ở Việt Nam tình trạng này cũng đang gia tăng mạnh mẽ.

ATS gây kích thích thần kinh và gây ảo giác, mất cảm giác thèm ăn, có thể ở dạng bột, dạng tinh thể. Chất kích gây nhiều tác dụng tức thì như cảm giác phê sướng, tăng cường sinh lực, trạng thái thức tỉnh, giảm cảm giác đói, tăng khả năng suy nghĩ mạch lạc, tăng tự tin, tăng khả năng giao tiếp, tâm trạng phấn chấn. Tuy nhiên, ATS cũng gây trạng thái tăng nhịp tim, tăng huyết áp, giãn đồng tử, tăng nhịp hô hấp, tăng thân nhiệt.

Sử dụng ATS trong thời gian dài có thể có nhưng tác dụng không mong muốn về tâm lý như biến đổi tâm tính, trầm cảm, hoang tưởng, ảo giác, mất ngủ, lo lắng, hoảng loạn. Từ đó có những hành vi không mong muốn như bạo lực, hung hăng.

Người sử dụng MTTH dạng Amphetamine thường bắt đầu từ việc sử dụng thuốc lắc và Amphetamine, sau đó chuyển sang sử dụng ATS dạng tinh thể (đá). Tần suất mà những nhóm này sử dụng các loại ATS thường là không đồng nhất, phần lớn không sử dụng thường xuyên (vài tháng một lần), điều đó khiến người sử dụng ma túy dạng này thường nghĩ mình không bị nghiện và lệ thuộc vào loại ma túy này. Hiện nay, vai trò của thuốc để dự phòng tái nghiện chưa được khẳng định rõ ràng. Việc điều trị MTTH dạng Amphetamine chủ yếu dựa vào phương pháp tâm lý.

Ketamine ký hiệu là "K", hoặc Kitat, loại thuốc độc bảng A. Ketamine thực chất là một loại thuốc gây mê, gây ảo giác, được sử dụng trong y học, là tiền chất gây mê dùng cho thú y và người. Nếu tiêm vào tĩnh mạch, chỉ sau một phút người bệnh nhanh chóng cảm nhận được cảm giác phân li và ngay lập tức, rơi vào tình trạng vô thức. Khi sử dụng có thể bị tăng huyết áp, nhịp tim nhanh, trụy hô hấp, nhìn đôi, buồn nôn, tăng trương lực cơ, ảo giác, kích động.

Ketamine được chỉ định được phép dùng ở các cơ sở y tế có trang bị tốt và chuyên nghiệp. Nếu sử dụng Ketamine không đúng chỉ định, từ trạng thái mơ màng bị nhiễm độc đến mê sảng, bị kích động mạnh, không đi lại được, không cảm thấy đau đớn hoặc không nhớ điều gì đã xảy ra...; cảm giác nghe, nhìn, sờ, mó, ngửi, nếm mùi vị bị thay đổi méo mó, đặc biệt nguy hại là hệ hô hấp sẽ bị suy yếu, thậm chí sẽ gây ra sự co thắt thanh quản cũng như tắc đường thở.

Khi mới sử dụng, tác động dữ dội của Ketamine kéo dài trong một giờ. Nhìn bằng mắt thường, rất khó phát hiện bởi Ketamine rất giống những thứ bột trắng khác. Ketamine có dạng bột tinh thể mầu trắng, chất lỏng hoặc viên, bao con nhộng, ở dạng muối clohydric, bột Ketamine có thể hòa tan trong nước và rượu.

Bọn tội phạm đã buôn bán Ketamine kèm theo các loại ma túy mạnh khác như heroin, hồng phiến, và con nghiệ sử dụng Ketamine như một loại ma túy - thần dược để "bồng bềnh tới tận mây xanh". Những kẻ lạm dụng Ketamine với mục đích phi y học thường dùng những liều lượng 50 mg hay hít một lượng ma túy khoảng từ 60 đến 125 mg, không gây bất tỉnh nhưng lại gây ra trạng thái phởn phơ và sự kích thích cao độ.

Một số nước trên thế giới và trong khu vực đã xếp Ketamine vào danh mục các chất ma túy. Ðiển hình, tại Campuchia, nước láng giềng của Việt Nam, hằng năm lực lượng phòng, chống ma túy đã thu giữ số lượng lớn Ketamine.

Trước đây ở nước ta, Ketamine chỉ được quản lý ở mức độ tân dược thuốc độc bảng A do Bộ Y tế quy định, song trước tình hình lạm dụng trái phép Ketamine diễn biến phức tạp, ngày 16/11/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 133/2003/NÐ-CP bổ sung chất Ketamine vào danh mục III "các chất ma túy độc dược được dùng trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị", kịp thời lấp kẽ hở pháp luật trong sử dụng bất hợp pháp Ketamine nói riêng và các loại ma túy nói chung.

Cần sa tổng hợp (cannabinoid) gây ra một số triệu chứng tương tự như sử dụng ma túy. Nhưng theo thông tin từ Cơ quan phòng chống ma túy Hoa Kỳ gọi tắt là DEA (Drug Enforcement Administration), cần sa tổng hợp nguy hiểm hơn cần sa thông thường vì các thành phần có thể dễ dàng thay đổi dưới nhiều hình thức ngụy trang, trong khi những chất cần sa tổng hợp có hại hơn gấp 1.000 lần so với cần sa truyền thống. Mặc dù trên bao bì có cảnh báo “not for human consumption” (không sử dụng cho người), tuy nhiên vẫn có nhiều người vô tư “chơi”, dẫn tới sức khỏe sụt giảm nghiêm trọng, thậm chí dẫn tới tử vong.

Nhằm qua mặt cơ quan chức năng, cần sa tổng hợp thường ngụy trang dưới mác gia vị, hương liệu, trà thảo mộc… trong các bao bì bắt mắt, dưới nhiều tên gọi khác nhau như: Kronic, Magic Dragon, Spice, Black Mamba, K2, Fake Marijuana, Sexy Monkey, Blue Night, Full Moon...

Nguy hiểm nhất là một số loại cần sa tổng hợp như K2/Spice có thành phần gồm hỗn hợp các loại thảo mộc khô, gia vị và hoa phun với các hợp chất tổng hợp hoặc hóa học tương tự như THC (tetrahydrocannabinol) được tìm thấy trong cần sa và được bán như loại hương liệu (để hít).

DEA thống kê năm 2015, đã có hơn 400 loại cần sa tổng hợp, có nguồn gốc từ Ấn Độ, Trung Đông, nhưng phần lớn đến từ các công ty hóa chất ở Trung Quốc và ở dạng bột.

Trường Đại học Sydney (Úc) đã có một bản báo cáo từng làm nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của cần sa tổng hợp lên cơ thể chuột, cho biết, không quá khó để điều chế ra cần sa tổng hợp, các sản phẩm này được sử dụng vào mục đích nghiên cứu ở các phòng thí nghiệm. Ban đầu, các hợp chất này được tạo ra nhằm mục đích nghiên cứu tác động của cần sa đến hệ thần kinh ở động vật, chứ không có mục đích dành cho người sử dụng.

Tuy nhiên do quá trình tổng hợp, điều chế dễ dàng nên các loại cần sa tổng hợp có giá thành rẻ hơn nhiều so với các loại ma túy truyền thống, lại có thể dễ dàng mua cần sa tổng hợp trên mạng hoặc các cửa hàng bán hương liệu, thảo dược, cửa hàng đồ gia dụng và không bị phát hiện bởi các bước kiểm tra chất kích thích thông thường… nên số người lạm dụng chúng ngày càng gia tăng, không giới hạn tuổi tác hay giới tính.

Nhưng trên thực tế thì những chất này không phải là lành tính, mọi người có thể không thể nhận ra sự nguy hiểm của loại thuốc này. Nó có hại hơn gấp 1.000 lần so với cần sa truyền thống.

Lạm dụng cần sa tổng hợp khiến người sử dụng tăng nhịp tim, tăng huyết áp, co giật cơ, xuất hiện các cơn động kinh, đau tim, đột quỵ, tổn thương thận (nhất là loại cần sa tổng hợp có chứa XLR-11; chất này đã bị cấm ở New Zealand, Florida (Mỹ)… dẫn tới hoang tưởng, sụt cân nghiêm trọng và thậm chí là tử vong.

Theo Cơ quan PCMT và tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC), trên thế giới hiện có 255 triệu người sử dụng ma túy, trong đó số người sử dụng MTTH chiếm 15%. Hiện nay, tình trạng lạm dụng MTTH đã và đang là vấn đề nghiêm trọng đối với các nước trên toàn thế giới, trong khu vực và ở Việt Nam.

Tính đến ngày 15/11/2017, nước ta có 222.582 người nghiện có hồ sơ quản lý, tăng 11.831 người so với năm 2016 (210.751 người), 58 địa phương có người nghiện tăng. Trong đó số người nghiện MTTH tiếp tục gia tăng; theo số liệu báo cáo từ 21 địa phương có thống kê, phân loại, số người sử dụng MTTH là 15.447 người (chiếm 46% số người sử dụng ma túy). Đặc biệt, có một số địa phương có tỷ lệ trên 80% như: Trà Vinh 90,7%; Đà Nẵng 86%; Quảng Trị 84%... số người mới sử dụng ma túy bị phát hiện chủ yếu sử dụng MTTH và các chất hướng thần thay vì các loại ma túy truyền thống. Còn theo nghiên cứu tại Hà Nội, Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh cho thấy, 40% người nghiện heroin có sử dụng ATS và số này có tỷ lệ loạn thần cao gấp 9,7 lần số không sử dụng ATS.

Cũng theo Viện Nghiên cứu sức khỏe tâm thần, loạn thần ở người sử dụng ATS chủ yếu là hoang tưởng chiếm tỷ lệ 68,2%, ảo giác là 72,7%, trầm cảm chiếm 23,8% và 15% trầm cảm trong thời gian 3 năm sau khi sử dụng ATS. Những người trầm cảm thường có hành vi tự sát gây rất nhiều khó khăn cho cơ sở cai nghiện.

Top